Sốt Cao Co Giật ở Trẻ Em

Giới thiệu
Cơn sốt cao co giật (Febrile seizures) là rối loạn thần kinh phổ biến nhất ở trẻ nhủ nhi và trẻ nhỏ.
Đây là hiện tượng phụ thuộc vào độ tuổi, xảy ra ở 2 – 4 % trẻ dưới năm tuổi. Với tỷ lệ cao nhất ở độ tuổi từ 12 đến 18 tháng.
Định nghĩa sốt cao co giật
Các tiêu chí được chấp nhận rộng rãi cho các cơn sốt cao co giật bao gồm:
- Cơn co giật liên quan đến nhiệt độ cơ thể tăng cao hơn 38°C.
- Trẻ từ sáu tháng đến dưới năm tuổi.
- Không có nhiễm trùng hoặc viêm hệ thần kinh trung ương.
- Không có bất thường chuyển hóa hệ thống cấp tính có thể gây ra co giật.
- Không có tiền sử co giật không do sốt trước đó.
Các cơn sốt cao co giật không được coi là bệnh động kinh, vì bệnh động kinh được đặc trưng bởi các cơn động kinh (co giật) không do sốt và khả năng tái phát cao.
Các cơn sốt cao co giật được chia thành hai loại: đơn giản và phức tạp, dựa trên các đặc điểm lâm sàng.
Yếu tố nguy cơ sốt cao co giật
Sốt cao co giật là một hiện tượng phụ thuộc vào tuổi tác, có khả năng liên quan đến sự nhạy cảm của hệ thần kinh đang phát triển đối với tác động của sốt kết hợp với sự nhạy cảm di truyền cơ bản.
Ngoài tuổi tác, các yếu tố nguy cơ thường gặp nhất bao gồm sốt cao, nhiễm virus, tiêm chủng gần đây và tiền sử gia đình có co giật do sốt.
Sốt cao
Mức độ sốt có thể là yếu tố quyết định chính trong nguy cơ co giật do sốt.
Ngưỡng co giật thấp hơn ở trẻ nhủ nhi và thay đổi bởi một số loại thuốc và sự mất cân bằng nước và điện giải, đặc biệt là hạ Natri máu.
Nhiễm trùng
Nhiễm virus thường được xác định liên quan đến co giật do sốt, trong khi nhiễm khuẩn ít gặp hơn. Sốt cao co giật không được coi là đặc hiệu cho virus, mà phụ thuộc vào mức độ tăng nhiệt độ.
Nhiễm virus liên quan đến sốt cao như là HHV-6 (human herpesvirus 6) và cúm, dường như gây ra nguy cơ cao nhất.
Nuôi con bằng sữa mẹ được báo cáo là một yếu tố bảo vệ, nguy cơ sốt cao co giật thấp hơn với việc nuôi con bằng sữa mẹ một phần hoặc hoàn toàn so với việc cho ăn hoàn toàn bằng sữa công thức đến tuổi 2,5 năm. Sau 2,5 năm, sự khác biệt về nguy cơ không còn đáng kể.
Tiêm chủng
Nguy cơ sốt cao co giật tăng sau khi tiêm một số loại vaccine, bao gồm bạch hầu, độc tố uốn ván, và ho gà toàn tế bào (DTwP); và sởi, quai bị, và rubella (MMR), mặc dù nguy cơ tuyệt đối là nhỏ.
Nguy cơ này thay đổi tùy theo loại vaccine và độ tuổi của trẻ khi được tiêm.
Sự nhạy cảm di truyền cũng có thể đóng một vai trò.
Đối với những trẻ bị sốt cao co giật trong vài ngày sau khi tiêm chủng, quyết định có nên tiếp tục tiêm chủng sa này hay không cần được cá nhân hóa tùy thuộc vào đánh giá về lợi ích và rủi ro. Trong nhiều trường hợp, lợi ích vượt trội hơn rủi ro.
Sự nhạy cảm di truyền
Sự nhạy cảm di truyền đối với sốt cao co giật đã được ghi nhận từ lâu, mặc dù cơ chế di truyền chính xác không được biết trong hầu hết các trường hợp.
- 10 – 20 % cha mẹ và anh chị em của người bệnh cũng đã từng có co giật do sốt.
- Ngoài ra, các cặp song sinh đồng hợp tử có tỷ lệ cùng bị co giật cao hơn so với các cặp song sinh dị hợp tử và anh chị em thông thường.
Sự nhạy cảm với sốt cao co giật có thể do đột biến di truyền ở các vị trí khác nhau trong bộ nhiễm sắc thể.
Ở một số trẻ bệnh, sốt cao co giật là biểu hiện sớm của động kinh toàn thể hóa với sốt cao co giật (generalized epilepsy with febrile seizures plus-GEFS+).
Động kinh giật cơ nghiêm trọng ở trẻ nhũ nhi (hội chứng Dravet) là một loại động kinh di truyền khác với sự chiếm ưu thế rõ rệt về co giật kèm sốt trong thời kỳ đầu đời.
Đặc điểm lâm sàng sốt cao co giật
Đặc điểm co giật
Sốt cao co giật đơn giản
Sốt cao co giật đơn giản chiếm phần lớn các cơn co giật do sốt, và có các đặc điểm sau:
- Co giật toàn thể, các cơ mặt và cơ hô hấp thường bị ảnh hưởng.
- Kéo dài dưới 15 phút.
- Và không tái phát trong vòng 24 giờ.
Trẻ em thường trở lại trạng thái ban đầu nhanh chóng sau cơn sốt cao co giật đơn giản.
Mặc dù chúng có thể tái phát ở khoảng một phần ba số trẻ trong thời thơ ấu, nhưng chúng là hiện tượng lành tính và liên quan đến nguy cơ động kinh trong tương lai chỉ cao hơn một chút so với dân số chung.
Sốt cao co giật phức tạp
Sốt cao co giật phức tạp ít phổ biến hơn, chiếm khoảng 20% các trường hợp sốt cao co giật, và có các đặc điểm như sau:
- Khởi phát khu trú. Ví dụ, co giật ở một chi hoặc một bên cơ thể.
- Cơn kéo dài hơn 15 phút.
- Chiếm dưới 10% các trường hợp sốt cao co giật.
- Hoặc tái phát trong vòng 24 giờ.
Trẻ em bị sốt cao co giật phức tạp thường nhỏ tuổi hơn và có khả năng cao hơn về sự phát triển bất thường.
Sự khác biệt giữa đơn giản và phức tạp có ý nghĩa tiên lượng, với hầu hết các nghiên cứu cho thấy rằng bệnh nhân có các đặc điểm phức tạp có nguy cơ cao hơn bị tái phát các cơn sốt cao co giật và một nguy cơ cao hơn bị co giật không do sốt trong tương lai.
Trạng thái động kinh do sốt – Febrile status epilepticus (FSE)
Một số bệnh nhân biểu hiện ở trạng thái động kinh do sốt, tức là các cơn co giật liên tục hoặc co giật ngắt quãng mà không có sự phục hồi thần kinh.
Các dấu hiệu lâm sàng quan trọng cho thấy cơn co giật đã kết thúc bao gồm mắt nhắm và hít thở sâu.
Trẻ em với mắt mở liên tục và nhìn lệch sang 1 bênh có thể gợi vẫn còn cơn động kinh, ngay cả khi không còn thấy co giật.
Theo định nghĩa, trạng thái động kinh do sốt không bao gồm các đợt trạng thái động kinh ở trẻ em với sốt do viêm màng não, nhưng sự phân biệt này có thể không thể chỉ dựa trên các đặc điểm lâm sàng tại thời điểm biểu hiện ban đầu, và chọc dò tủy sống nên được xem xét cẩn thận hơn ở người bệnh có cơn động kinh kéo dài.
Chẩn đoán phân biệt
Rùng mình do lạnh (Shaking chills)
Có thể xảy ra ở trẻ bệnh và có thể bị nhầm lẫn với co giật.
Rùng mình lạnh thường dễ phân biệt với co giật bởi các đặc điểm sau đây:
- Các chuyển động không chủ ý.
- Dao động nhịp nhàng, biên độ nhỏ.
- Hiếm khi liên quan đến cơ mặt hoặc cơ hô hấp, điều thường xảy ra trong sốt cao co giật.
- Thường ảnh hưởng đến cả hai bên của cơ thể cùng lúc.
- Không kèm theo mất ý thức, ngược lại với trẻ em có co giật toàn thân.
- Có thể biến mất khi chạm vào cơ thể trẻ đang rùng mình do lạnh.
Nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương
Cơn động kinh do viêm màng não hoặc viêm não là những mối quan tâm chính ở trẻ em có triệu chứng sốt và cơn động kinh.
Một đánh giá kỹ lưỡng bởi một bác sĩ có kinh nghiệm hầu như luôn phát hiện ra trẻ bị viêm màng não.
Trẻ em bị trạng thái động kinh và sốt có thể có nhiều khả năng bị viêm màng não do vi khuẩn hơn so với những người có cơn co giật ngắn.
Động kinh di truyền với sốt cao co giật
Ở một số bệnh nhân, xu hướng sốt cao co giật là một biểu hiện sớm của động kinh toàn thể với sốt cao co giật plus (Generalized Epilepsy with Febrile Seizures plus_GEFS+), một loại động kinh di truyền với nhiều đột biến gây bệnh đã được xác định.
Ngoài sốt cao co giật điển hình, kiểu hình phổ biến nhất của GEFS+ bao gồm:
- Cơn động kinh khi sốt trong thời thơ ấu (early childhood), không giống như sốt cao co giật điển hình, GEFS+ kéo dài đến sau sáu tuổi hoặc kết hợp với co giật toàn thân không sốt.
- Có thể biểu hiện co giật cục bộ.
- Động kinh thường thuyên giảm vào giữa tuổi thiếu niên nhưng có thể kéo dài đến tuổi trưởng thành.
GEFS+ thường liên quan đến kiểu di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường.
Động kinh giật cơ nghiêm trọng ở trẻ nhủ nhi (hội chứng Dravet) là một loại động kinh di truyền hiếm gặp có thể giống với sốt cao co giật phức tạp trong năm đầu tiên.
- Do đột biến trên gen SCN1A, được xác định ở khoảng 70 đến 80% người bệnh.
- Bệnh nhân mắc hội chứng Dravet thường xuất hiện trẻ < 1 tuổi, với các cơn co giật toàn thân hoặc co giật 1/2 người, kéo dài, thường có sốt.
- Hầu hết bệnh nhân có cơn co giật khó kiểm soát và kết quả phát triển thần kinh kém, do đó dễ dàng phân biệt với bệnh nhân sốt cao co giật theo thời gian.
Bệnh não cấp tính với co giật hai pha và giảm khuếch tán muộn
Bệnh não cấp tính với co giật hai pha và giảm khuếch tán muộn (Acute encephalopathy with biphasic seizures and late reduced diffusion-AESD) là một hội chứng sau nhiễm trùng được báo cáo chủ yếu ở Nhật Bản.
AESD được đặc trưng bởi sự xuất hiện ban đầu ở trẻ nhỏ với trạng thái động kinh do sốt kéo dài, sau đó là giai đoạn ngắn không co giật trước khi tái phát các cơn co giật khu trú suy giảm ý thức trong khoảng bốn đến sáu ngày sau khi khởi phát.
MRI não bình thường khi xuất hiện nhưng thường cho thấy các tổn thương chất trắng trên hình ảnh khuếch tán từ ba đến chín ngày sau khi khởi phát.
Hầu hết bệnh nhân có các suy giảm thần kinh lâu dài như khuyết tật trí tuệ.
Nghiên cứu thấy rằng việc rút ngắn thời gian co giật bằng điều trị hiệu quả sớm và ngăn ngừa thiếu oxy trong quá trình vận chuyển bằng xe cứu thương có thể giảm nguy cơ AESD.
Đánh giá chẩn đoán sốt cao co giật
Ở trẻ có tiền sử điển hình về sốt cao co giật đơn giản, không có triệu chứng khu trú, xét nghiệm chẩn đoán là không cần thiết trong hầu hết các trường hợp. Đánh giá nên tập trung vào việc chẩn đoán nguyên nhân sốt và hướng dẫn cha mẹ hoặc người chăm sóc về nguy cơ tái phát sốt cao co giật và nguy cơ thấp của động kinh trong tương lai.
Trẻ em xuất hiện với cơn co giật kéo dài hoặc khu trú, đặc biệt là lần đầu tiên, cần loại trừ khả khả năng viêm màng não hoặc nguyên nhân cấu trúc hoặc chuyển hóa tiềm ẩn (mặc dù vẫn khá thấp), và có nguy cơ cao hơn một chút về cơn co giật không sốt trong tương lai.
Bệnh sử
Các yếu tố chính của bệnh sử cơn động kinh ở trẻ em xuất hiện với sốt cao co giật bao gồm:
- Đặc điểm của cơn co giật.
- Thời gian của cơn co giật.
- Sự hiện diện của các đặc điểm khu trú (ví dụ, co giật giới hạn ở một chi hoặc một bên cơ thể).
- Nếu có thể, nên phỏng vấn người chứng kiến cơn co giật.
Khai thác bệnh sử chú ý nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc bất thường cấu trúc tiềm ẩn ở trẻ.
Ngoài ra cần khai thác thêm các thông tin về tiền sử như:
- Tình trạng tiêm chủng.
- Tiền sử cá nhân hoặc gia đình về cơn co giật.
- Tiền sử các vấn đề thần kinh hoặc chậm phát triển.
- Trẻ có tình trạng thần kinh đã biết có thể dễ bị co giật hơn khi bị sốt, điều này sẽ không được phân loại là sốt cao co giật đơn giản.
Khám lâm sàng
Khám tổng quát và khám thần kinh nên bao gồm chú ý đến:
- Các dấu hiệu sinh tồn.
- Mức độ ý thức.
- Dấu hiệu màng não, thóp căng hoặc phồng.
- Và sự khác biệt khu trú về trương lực cơ, sức cơ, hoặc cử động tự phát.
Sự hiện diện của bất kỳ dấu hiệu nào trong số này nên nghi ngờ viêm màng não hoặc bất thường cấu trúc não.
- Rối loan ý thức kéo dài sau cơn co giật. Trẻ bị sốt cao co giật thường biểu hiện tỉnh táo, và tình trạng buồn ngủ sau cơn co giật thường giảm trong vòng 5 đến 10 phút, tùy thuộc vào thời gian và loại co giật.
- Nếu triệu chứng bất thường của não kéo dài sau khoảng thời gian này nên nghi ngờ về nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương có thể hoặc nhiễm trùng hệ thống nghiêm trọng.
Cần chú ý theo dõi các cơn co giật khu trú liên tục hoặc tái phát ở trẻ em xuất hiện với sốt cao co giật phức tạp, bao gồm cả trạng thái động kinh do sốt.
Chọc dò tủy sống (Lumbar puncture – LP)
Chỉ định thực hiện chọc dò tủy sống và xét nghiệm dịch não tủy để loại trừ viêm màng não hoặc viêm não ở trẻ em có sốt cao co giật chủ yếu dựa trên các dấu hiệu lâm sàng.
Khoảng 25% trẻ em bị viêm màng não sẽ có cơn động kinh tại hoặc trước khi xuất hiện ban đầu, nhưng hầu hết trong số này sẽ có các dấu hiệu và triệu chứng khác của viêm màng não (ví dụ: thay đổi ý thức, cứng gáy, phát ban dạng xuất huyết).
Tăng bạch cầu trong dịch não tủy ở một bệnh nhân có sốt cao co giật nên được coi là dấu hiệu của viêm màng não do vi khuẩn cho đến khi được chứng minh ngược lại, cần đánh giá thêm bằng nuôi cấy và trong một số trường hợp là điều trị kháng sinh kinh nghiệm. Mặc dù tăng bạch cầu trong dịch não tủy có thể do cơn động kinh ở một số trường hợp, tuy nhiên hiếm gặp trong bối cảnh sốt cao co giật.
Xét nghiệm máu
Tổng phân tích tế bào máu và đo các chất điện giải trong huyết thanh, đường huyết, Canxi và Urê máu ít có giá trị trên trẻ sốt cao co giật đơn giản; các xét nghiệm này chỉ nên chỉ định khi trẻ bị nôn, tiêu chảy, và uống nước không đủ, hoặc khi có các phát hiện lâm sàng của mất nước hoặc phù.
Ở trẻ em xuất hiện với sốt cao co giật phức tạp, hạ natri máu thường gặp hơn và có liên quan đến nguy cơ tái phát cơn động kinh trong đợt bệnh hiện này. Do đó, nên tránh việc bù nước bằng dịch nhược trương ở trẻ em có sốt cao co giật.
Chẩn đoán hình ảnh thần kinh
Chụp hình ảnh thần kinh bằng cắt lớp vi tính hoặc MRI không cần thiết cho trẻ em có sốt cao co giật đơn giản.
Tỷ lệ bệnh lý nội sọ ở trẻ em xuất hiện với sốt cao co giật phức tạp cũng rất thấp.
Chẩn đoán hình ảnh thần kinh khẩn cấp (CT có cản quang hoặc MRI) nên được thực hiện ở trẻ em có đầu lớn bất thường, khám thần kinh bất thường kéo dài, đặc biệt là với các đặc điểm khu trú, hoặc các dấu hiệu và triệu chứng của tăng áp lực nội sọ.
MRI độ phân giải cao thường được thực hiện ở môi trường ngoại trú ở trẻ em có sốt cao co giật khu trú hoặc kéo dài, đặc biệt là những trẻ có tiền sử phát triển bất thường, vì những trẻ này có nguy cơ cao hơn phát triển cơn động kinh không sốt.
Điện não đồ
Điện não đồ (EEG) thường quy không được khuyến cáo, đặc biệt trong bối cảnh một trẻ em khỏe mạnh thần kinh có sốt cao co giật đơn giản.
Ở trẻ em có sốt cao co giật phức tạp, nhu cầu EEG phụ thuộc vào nhiều yếu tố và đánh giá lâm sàng.
Một cơn co giật kéo dài, hoặc có đặc điểm khu trú, yêu cầu EEG và theo dõi thần kinh vì nguy cơ động kinh trong tương lai (cơn co giật không sốt lặp lại) cao hơn.
Xét nghiệm di truyền
Xét nghiệm di truyền không được khuyến cáo ở hầu hết trẻ em có sốt cao co giật, ngay cả những trẻ có tiền sử gia đình bị động kinh.
Ngược lại, xét nghiệm di truyền có thể được chỉ định khi nghi ngờ hội chứng Dravet dựa trên nhiều cơn sốt cao co giật khu trú kéo dài và các loại cơn co giật khác trước 12 đến 18 tháng tuổi.
Đánh giá ban đầu
Trong khi các cơn sốt cao co giật đơn giản thường tự kết thúc trước khi trẻ được đánh giá và không cần điều trị, các cơn động kinh kéo dài có thể cần phải điều trị cắt cơn bằng benzodiazepin trong xe cứu thương hoặc tại khoa cấp cứu.
Thuốc chống động kinh dự phòng có thể giảm nguy cơ tái phát sốt cao co giật, nhưng do tính chất lành tính của hầu hết các cơn động kinh, các nguy cơ tác dụng phụ thường vượt quá lợi ích.
Việc đánh giá ban đầu trẻ em có cơn động kinh trong bối cảnh sốt phải phân biệt được sốt cao co giật với các nguyên nhân khác và nghiêm trọng hơn như nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương.
Điều này có thể thực hiện được bằng việc khai thác bệnh sử và thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng trong hầu hết các trường hợp, cùng với chụp hình thần kinh và chọc dò tủy sống trong những trường hợp được chọn lọc.
Trẻ em có sốt cao co giật khu trú hoặc kéo dài có thể cần đánh giá kỹ lưỡng hơn so với trẻ có sốt cao co giật đơn giản, đặc biệt là vào thời điểm cơn động kinh đầu tiên.
Điều trị cấp tính
Liệu pháp cấp cứu khẩn cấp
Phần lớn các trường hợp sốt cao co giật đã tự kết thúc trước khi trẻ được đánh giá lần đầu và trẻ nhanh chóng trở lại trạng thái bình thường. Trong các trường hợp như vậy, không cần thiết phải điều trị tích cực bằng benzodiazepin. Sốt nên được điều trị triệu chứng bằng thuốc hạ sốt.
Giống như các cơn động kinh không kèm sốt, các cơn sốt cao co giật kéo dài hơn năm phút nên được điều trị.
- Benzodiazepin tiêm tĩnh mạch (diazepam 0,1 đến 0,2 mg/kg hoặc lorazepam 0,05 đến 0,1 mg/kg) có hiệu quả trong việc cắt cơn động kinh trong nhiều trường hợp. Nếu cơn động kinh kéo dài, có thể cho thêm một liều nữa.
- Tình trạng hô hấp và tuần hoàn của trẻ nên được theo dõi cẩn thận và cần can thiệp đường thở nâng cao (ví dụ: thông khí bằng mặt nạ, mặt nạ thanh quản, đường thở nhân tạo) nếu tình trạng thông khí trở nên không đủ.
Hiệu quả và tính an toàn của benzodiazepin tiêm tĩnh mạch như là liệu pháp hàng đầu trong điều trị cơn động kinh ở trẻ em đã được chứng minh trong nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên, chủ yếu ở trẻ em có cơn động kinh không kèm sốt hoặc trạng thái động kinh.
Trạng thái động kinh sốt cao
Bệnh nhân có cơn động kinh kéo dài hoặc tái phát bất chấp việc sử dụng benzodiazepin ban đầu (tức là trạng thái động kinh sốt cao) nên được điều trị ngay bằng các thuốc chống động kinh khác, như các bệnh nhân khác có trạng thái động kinh.
Thuốc thường được sử dụng nhất trong trường hợp này là fosphenytoin (20 mg phenytoin equivalents [PE]/kg tiêm tĩnh mạch).
Nỗ lực nên được thực hiện để hạ sốt bằng thuốc hạ sốt và chăn làm mát.
Trạng thái động kinh sốt cao hiếm khi tự ngừng và thường cần nhiều hơn một loại thuốc để kiểm soát. Những dấu hiệu lâm sàng quan trọng cho thấy cơn động kinh đã kết thúc bao gồm mắt nhắm và hơi thở sâu. Trẻ em có mắt mở và nhìn lệch dai dẳng có thể vẫn còn động kinh, ngay cả khi hoạt động cơ co giật đã dừng.
Điều trị trước khi vào bệnh viện
Điều trị các cơn động kinh kéo dài với midazolam tiêm bắp hoặc lorazepam tiêm tĩnh mạch dường như an toàn và hiệu quả ở trẻ em có trạng thái động kinh.
Quyết định xuất viện
Hầu hết trẻ em có sốt cao co giật đơn giản không cần nhập viện và có thể được xuất viện an toàn về nhà khi trẻ đã trở lại trạng thái bình thường và phụ huynh cùng người chăm sóc đã được giáo dục về nguy cơ tái phát sốt cao co giật.
Trẻ em có cơn động kinh khu trú hoặc kéo dài có thể cần thời gian quan sát kéo dài hơn, đặc biệt nếu có sự chậm trễ trong việc trở lại trạng thái bình thường hoặc có triệu chứng yếu khu trú sau cơn động kinh.
Thời gian bình thường của giai đoạn sau cơn động kinh không được xác định rõ ràng, nhưng các nghiên cứu hiện có cho thấy rằng trở lại trạng thái nhận thức bình thường thường xảy ra trong vòng năm phút.
Việc không trở lại trạng thái nhận thức bình thường trong vòng năm phút hoặc có sự yếu khu trú sau cơn (liệt Todd) sẽ được coi là sự chậm trễ trong phục hồi. Liệt Todd có thể kéo dài đến 24 giờ.
Các yếu tố khác cần xem xét khi quyết định có nên nhập viện cho trẻ bao gồm mức độ tự tin trong việc sắp xếp theo dõi ngoại trú (đối với cơn động kinh khu trú hoặc kéo dài), mức độ thoải mái của phụ huynh hoặc người chăm sóc, và mức độ nghiêm trọng của bệnh lý nền gây sốt (ví dụ: tình trạng thiếu nước, khả năng tiếp nhận chất lỏng bằng đường uống).
Tái phát sốt cao co giật
Trẻ em có sốt cao co giật có nguy cơ phát triển tái phát sốt cao co giật trong tương lai ở thời kỳ thơ ấu.
Yếu tố nguy cơ tái phát
Tỷ lệ tái phát chung khoảng 30 đến 35%. Tuy nhiên, các giá trị này thay đổi theo độ tuổi,
- Từ cao đến 50 đến 65% ở trẻ dưới một tuổi tại thời điểm cơn động kinh đầu tiên.
- Đến thấp 20% ở trẻ lớn hơn.
- Yếu tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ tái phát là tuổi của trẻ tại thời điểm cơn động kinh đầu tiên.
Các yếu tố khác bao gồm:
- Phát triển bất thường trước cơn sốt cao co giật đầu tiên,
- Tiền sử động kinh không kèm sốt ở cha mẹ và anh chị em,
- Tái phát cơn động kinh trong cùng bệnh lý, và số lần bệnh lý sốt tiếp theo.
- Trong số trẻ em có một lần tái phát, tuổi nhỏ hơn tại thời điểm tái phát đầu tiên và tiền sử động kinh trong gia đình là các yếu tố dự đoán tái phát tiếp theo.
Cung cấp benzodiazepin tại nhà
Ở trẻ em có tiền sử sốt cao co giật kéo dài, bao gồm cả trạng thái động kinh sốt cao (FSE), gel diazepam đường trực tràng (0,5 mg/kg) có thể được phụ huynh hoặc người chăm sóc sử dụng tại nhà nếu cơn kéo dài hơn năm phút.
Phụ huynh và người chăm sóc có thể được hướng dẫn cách sử dụng thuốc an toàn tại nhà, và một liều dùng qua trực tràng sẽ không dẫn đến suy hô hấp.
Xịt mũi midazolam là một lựa chọn thay thế cho diazepam trực tràng để sử dụng tại nhà.
Vai trò của liệu pháp dự phòng
Thuốc chống động kinh dự phòng có thể giảm nguy cơ tái phát sốt cao co giật, nhưng do tính chất lành tính của hầu hết các cơn sốt cao co giật và các nguy cơ tác dụng phụ thường vượt quá lợi ích.
Sử dụng thuốc hạ sốt ngay khi có dấu hiệu sốt không ngăn ngừa được tái phát sốt cao co giật.
Liệu pháp chống động kinh
Trẻ em có sốt cao co giật tăng nguy cơ sốt cao co giật tái phát và phát triển thành cơn động kinh không do sốt, cho thấy vai trò của liệu pháp dự phòng bằng thuốc chống động kinh lâu dài.
Tuy nhiên, do tính chất lành tính của các cơn sốt cao co giật tái phát, có sự đồng thuận chung rằng các nguy cơ của việc điều trị bằng thuốc chống động kinh vượt quá lợi ích cho hầu hết bệnh nhân.
Việc sử dụng thuốc chống động kinh lâu dài hoặc phòng ngừa sốt cao co giật tái phát không liên quan đến giảm nguy cơ động kinh.
Ở một số trẻ, cơn sốt cao co giật có thể là biểu hiện đầu tiên của động kinh.
Thuốc hạ sốt
Đối với trẻ em đã có sốt cao co giật, điều trị bằng thuốc hạ sốt trong thời gian bị sốt
- Có thể giảm bớt sự khó chịu
- Và giảm nguy cơ tái phát sốt cao co giật trong cùng đợt sốt,
- Nhưng không có vẻ ảnh hưởng đến tỷ lệ tái phát sốt cao co giật trong các đợt sốt sau này.
Tiên lượng
Tiên lượng cho trẻ em có co giật sốt thường là tốt.
Hậu quả thần kinh
Các hậu quả thần kinh, bao gồm các khiếm khuyết thần kinh mới, suy giảm trí tuệ và rối loạn hành vi, hiếm khi xảy ra sau các cơn sốt cao co giật.
Không có sự khác biệt được tìm thấy trong các chỉ số tiến bộ học tập ở các trẻ em có sốt cao co giật, cho dù là dạng đơn giản, phức tạp hoặc tái phát.
Tiến triển thành bệnh động kinh
Động kinh xảy ra ở trẻ em đã từng có cơn sốt cao co giật sẽ nhiều hơn so với dân số chung.
- Ở trẻ em bình thường có cơn sốt cao co giật đơn giản, nguy cơ là khoảng 1 đến 2%, chỉ cao hơn so với dân số chung một ít.
- Đối với trẻ em có cơn sốt cao co giật phức tạp, tiền sử phát triển bất thường hoặc có tiền sử gia đình mắc bệnh động kinh, nguy cơ sẽ cao hơn, xấp xỉ từ 5 đến 10%.
- Trẻ em có phát triển thần kinh bất thường và cơn co giật đầu tiên phức tạp (cục bộ, nhiều lần hoặc kéo dài hơn 15 phút) có tỷ lệ mắc co giật không liên quan đến sốt là 9,2% vào năm bảy tuổi,
- Các yếu tố nguy cơ gây ra động kinh được xác định là
- Cơn động kinh cục bộ.
- Cơn động kinh kéo dài.
- Nhiều lần tái phát trong vòng 24 giờ trong cùng một bệnh.
- Nguy cơ mắc động kinh cao hơn ở những người có tiền sử gia đình mắc động kinh, bại não.
Điện não đồ và nguy cơ tiến trển thành bệnh động kinh
Sự hiện diện của các phóng điện dạng động kinh ngoài cơn trên EEG sau một hoặc nhiều cơn sốt cao co giật phức tạp kết hợp với nguy cơ tăng cao cho động kinh trong tương lai.
Chậm sóng hoặc suy giảm điện thế trên EEG thực hiện trong vòng 72 giờ sau trạng thái động kinh do sốt cao là một dấu hiệu sinh học tiềm năng cho sự phát triển động kinh sau này, và những thay đổi này rất kết hợp với bằng chứng MRI của tổn thương hải mã cấp tính.
Xuất hiện động kinh thùy thái dương trong tương lai
Báo cáo về bệnh nhân bị động kinh thùy thái dương kháng thuốc được xem xét phẫu thuật thường thấy có mối liên hệ với co giật do sốt trong thời kỳ nhũ nhi, đặc biệt là cơn kéo dài. Ngoài ra, các nghiên cứu đánh giá thể tích hải mã ở người lớn bị động kinh đã tìm thấy sự liên kết giữa hải mã nhỏ hơn và tiền sử sốt cao co giật.
Ở một số trẻ có cơn co giật kéo dài đáng kể, MRI cho thấy phù cấp tính của hải mã, một phát hiện cũng được ghi nhận trong các loạt ca bệnh khác. Các nghiên cứu hình ảnh tiếp theo ở những trẻ này có thể cho thấy teo hải mã hoặc các đo lường hệ số khuếch tán bất thường.
Trạng thái động kinh do sốt cao – Febrile status epilepticus
Trạng thái động kinh do sốt cao (FSE) là một loại của sốt cao co giật phức tạp, và do đó kết hợp với nguy cơ tăng cao của sốt cao co giật tái phát, cũng như các cơn động kinh không do sốt trong tương lai. Tuy nhiên, mức độ tăng nguy cơ này chưa được xác định rõ.
Trẻ em bị trạng thái động kinh do sốt cao có nhiều khả năng có các bất thường hình ảnh hải mã tại thời điểm xuất hiện so với những trẻ bị sốt cao co giật đơn giản, bao gồm tăng tín hiệu T2 bất thường của hải mã ở 11.5% và các bất thường phát triển của hải mã ở 10.5%.
Tài liệu tham khảo:
- Clinical features and evaluation of febrile seizures [online]. Available at: https://www.uptodate.com.